Rối loạn phổ tự kỷ là gì?
Tự kỷ là một chứng rối loạn phát triển não bộ, ảnh hưởng đến cách một người trải nghiệm thế giới và các vấn đề khác liên quan đến con người.
Thuật ngữ chính thức là rối loạn phổ tự kỷ (ASD - Autism spectrum disorder). Tình trạng này được mô tả dưới dạng phổ vì những triệu chứng có thể thay đổi từ rất nhẹ đến rất nặng.
Những dấu hiệu đầu tiên của chứng tự kỷ thường xuất hiện ngay lúc nhỏ - thậm chí trẻ sơ sinh cũng có thể có những triệu chứng tự kỷ.
Các bác sĩ đang cố gắng để chẩn đoán chứng tự kỷ một cách tốt hơn, tuy nhiên cha mẹ lại thường là người đầu tiên nhận thấy con mình đang có điều gì đó khác thường.
Cha mẹ là người đầu tiên nhân ra sự khác thường của trẻ
Trẻ tự kỷ đôi khi gặp khó khăn để hiểu được ý nghĩa của nét mặt và cử chỉ trong giao tiếp, điều này khiến các bé cảm thấy khó hiểu về những gì người khác đang nghĩ và cảm nhận. Trẻ tự kỷ cũng khó thể hiện bản thân và truyền đạt ý kiến của mình.
Các triệu chứng phổ biến khác bao gồm các hành động lặp đi lặp lại như vỗ tay và nhạy cảm với một vài thứ gây kích thích như tiếng ồn lớn, ánh sáng mạnh, một số mùi hương và hình dạng nhất định.
Hai trẻ tự kỷ khác nhau thì không thể có các triệu chứng hoàn toàn giống nhau được. Một số trẻ mắc ASD có thể lặp lại toàn bộ đoạn văn mà trẻ đã ghi nhớ từ một cuốn sách nhưng không thể duy trì một cuộc trò chuyện.
Những trẻ khác có thể đọc những kiến thức được học ở lớp bốn khi chỉ mới 6 tuổi nhưng vẫn cần người khác giúp cài nút quần.
Để hiểu rõ hơn về tự kỷ mời ba mẹ tham khảo bài viết của POH: Tổng quan về tự kỷ
Hội chứng Asperger và PDD-NOS
Các bác sĩ đã từng phân chia chứng tự kỷ thành một số loại rối loạn hoặc "nhóm" riêng biệt, bao gồm hội chứng Asperger và rối loạn phát triển lan tỏa - không đặc hiệu (PDD-NOS: pervasive developmental disorder-not otherwise specified).
Nhưng các chuyên gia tâm lý đã thay đổi cách chẩn đoán chứng tự kỷ, do đó các bác sĩ và các nhà trị liệu không còn phân loại tự kỷ theo cách này nữa. Hiện nay các loại tự kỷ bao gồm cả mức độ nhẹ và nặng được gọi chung là hội chứng rối loạn phổ tự kỷ.
Hội chứng Asperger còn được gọi là Hội chứng thiên tài
Một em bé đã được các bác sĩ chẩn đoán mắc hội chứng Asperger hoặc PDD-NOS trước đây, cha mẹ của bé vẫn có thể tiếp tục đề cập các thuật ngữ đó với bác sĩ hoặc nhà trị liệu, nhưng theo thời gian những thuật ngữ đó sẽ dần không được sử dụng nữa
Cho dù thuật ngữ nào được sử dụng để mô tả chứng tự kỷ của trẻ đi chăng nữa thì điều quan trọng nhất là trẻ phải nhận được các phương pháp điều trị và các dịch vụ cần thiết.
Mặc dù các thuật ngữ Asperger và PDD-NOS ít được sử dụng nhưng ba mẹ cần nhận thức rõ ràng về các rối loạn này. Mời ba mẹ tham khảo hai bài viết “Hội chứng ASPERGER - Những điều mẹ cần tìm hiểu ngay” và "Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (PDD-NOS)" của POH để cùng tìm hiểu các rối loạn này.
Những dấu hiệu của chứng tự kỷ
Hầu hết độ tuổi của trẻ khi được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ ở Hoa Kỳ rơi vào khoảng 4 tuổi, nhưng dấu hiệu tự kỷ thường rõ ràng nhất khi trẻ 2 tuổi. Và có ít nhất một vài triệu chứng tự kỷ có thể xuất hiện từ rất sớm, mặc dù đôi lúc mọi người không nhận ra những dấu hiệu đó.
Các vấn đề về giao tiếp, phát triển xã hội và kỹ năng vận động tinh có thể được nhận thấy ở bé sớm nhất là vào 6 tháng tuổi.
Một số cha mẹ đã nhận ra những dấu hiệu tự kỷ ban đầu này trước khi con tròn 1 tuổi. Và khi các bé này 18 tháng tuổi, hầu hết cha mẹ đều biết rằng có điều gì đó không ổn đối với con của mình.
Trẻ tự kỷ thường có vấn đề vè giao tiếp và phát triển xã hội
Theo Jennifer Sharrial, nhà trị liệu ngôn ngữ tại Trung tâm Tự kỷ và các rối loạn liên quan của Viện Kennedy Krieger: "Có thể một trong những mối bận tâm đầu tiên của các bậc cha mẹ là con của họ không nói bập bẹ hoặc sử dụng âm thanh và lời nói để giao tiếp”.
Trong một số trường hợp, một đứa trẻ vẫn phát triển bình thường cho đến 1 hoặc 2 tuổi, và sau đó ngừng dần. Ví dụ như các bé vẫn có thể phát triển các kỹ năng giao tiếp nhưng sau đó ngừng phát triển tiếp hoặc mất một số kỹ năng bé đã có.
Việc chẩn đoán có thể diễn ra muộn hơn, sau khi các bé được 3 hoặc 4 tuổi ở những khu vực có thu nhập thấp, ở khu vực nông thôn cách xa các trung tâm y tế lớn và tại các cộng đồng Latinh và Mỹ gốc Phi. Những trẻ mắc chứng tự kỷ nhẹ hơn cũng thường được chẩn đoán ở độ tuổi lớn hơn.
Nguyên nhân gây ra chứng tự kỷ
Không ai biết chắc chắn nguyên nhân gây rachứng tự kỷ là gì, nhưng dường như cả hai yếu tố là di truyền và môi trường bên ngoài đều liên quan đến vấn đề này. Theo các chuyên gia, có nhiều nguyên nhân khác nữa cũng gây ra chứng tự kỷ.
Giáo sư Sally Ozonoff, phó chủ tịch nghiên cứu tại khoa Tâm thần học và Khoa học hành vi tại Viện UC Davis MIND giải thích: "Nguyên nhân chính có vẻ là do di truyền, bằng chứng là tỷ lệ các cặp song sinh mà cả hai đều mắc ASD rất cao.
Tuy nhiên, không phải tất cả các cặp song sinh đều mắc ASD, do đó, cũng phải có các yếu tố khác nữa ngoài gen di truyền gây ra chứng tự kỷ ở trẻ em."
Có nhiều giả thuyết về các nguyên nhân khác có thể gây bệnh, chẳng hạn như virus, các vấn đề về đường tiêu hóa và nhạy cảm với thực phẩm, và tiêm vacxin nhưng không có nghiên cứu đáng tin cậy nào chứng minh là đúng.
Một bài báo được xuất bản vào cuối những năm 1990 tuyên bố có mối liên hệ giữa vắc-xin MMR và chứng tự kỷ, nhưng nghiên cứu đó đã bị thu hồi. Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng không có mối liên hệ nào giữa vắc-xin MMR hoặc Thimerosal và chứng tự kỷ.
Ngoài ra, Thimerosal - một hợp chất chứa thủy ngân được sử dụng làm chất bảo quản đã gần như bị loại khỏi vắc-xin dành cho trẻ em ở Hoa Kỳ kể từ năm 2001, nhưng tỷ lệ trẻ mắc chứng tự kỷ vẫn đang gia tăng.
Những thông tin chi tiết về nguyên nhân hội chứng rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ POH đã có bài viết “Hội chứng rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ, nguyên nhân và cách điều trị” mời ba mẹ tham khảo!
Các yếu tố có khả năng gây ra chứng tự kỷ
Không có cách nào để có thể dự đoán liệu một em bé có thể bị tự kỷ hay không. Nhưng có một số yếu tố có nguy cơ cao gây nên bệnh này, bao gồm:
- Giới tính - con trai thường có nguy cơ mắc chứng tự kỷ cao hơn bốn đến năm lần so với con gái.
- Trẻ có anh chị em mắc chứng tự kỷ.
- Trẻ có một rối loạn phát triển khác, chẳng hạn như hội chứng Down hoặc hội chứng Fragile X.
- Sinh non hoặc sinh nhẹ cân
- Có mẹ hoặc bố đã lớn tuổi
- Người mẹ đã dùng một số loại thuốc trong khi mang thai, như axit valproic.
Cách chẩn đoán chứng tự kỷ
Không thể xét nghiệm y tế để phát hiện ra chứng tự kỷ được. Các bác sĩ đánh giá tình trạng của bệnh bằng cách sử dụng các dấu hiệu và chỉ dẫn liên quan đến một số hành vi cụ thể.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) nói rằng tự kỷ có thể có được chẩn đoán chính xác khi bé 2 tuổi.
Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị các bác sĩ nên xem xét các dấu hiệu tự kỷ ở giai đoạn đầu khi khám sức khỏe định kỳ cho bé vào thời điểm 9, 18 và 24 tháng tuổi. Việc xác định rối loạn phổ tự kỷ càng sớm thì càng tốt và việc này còn giúp các gia đình nhận được hỗ trợ thông qua các chương trình can thiệp sớm.
Nếu các mẹ có bất kỳ mối quan tâm nào về sự phát triển của con, hãy thảo luận ngay với bác sĩ (Các mẹ cũng có thể đánh giá cho con miễn phí thông qua các chương trình can thiệp sớm tại địa phương).
Chẩn đoán tự kỷ cho trẻ càng sớm càng tốt
Khi đánh giá, các chuyên gia sẽ hỏi mẹ về các hành vi mà mẹ quan sát được ở trẻ, chẳng hạn như bé có nói bập bẹ hay chỉ vào các đồ vật không. Nếu mẹ nhận thấy bất cứ điều gì khác thường có thể làm mẹ bận tâm, hãy nhớ đề cập đến việc đó khi nói chuyện với các bác sĩ hoặc các chuyên gia.
Nếu bác sĩ nghi ngờ việc bé có thể bị tự kỷ, bác sĩ sẽ giới thiệu mẹ đến các chuyên gia có chuyên môn về các chứng rối loạn.
Ngoài bác sĩ nhi khoa về các vấn đề liên quan đến sự phát triển, nhà thần kinh học hoặc nhà tâm lý học, con cũng có thể gặp bác sĩ thính học (để kiểm tra thính giác), nhà trị liệu ngôn ngữ và nhà trị liệu hành vi.
Các chuyên gia này có thể đánh giá các chuyển động cơ thể của bé, kỹ năng giao tiếp bằng lời nói, kỹ năng lắng nghe, khả năng thích ứng và kỹ năng xã hội của con.
Các chuyên gia vẫn thường sử dụng Sổ tay chẩn đoán và thống kê các loại rối loạn tâm thần trong chẩn đoán Tự kỷ. Cùng tìm hiểu thêm về những thay đổi trong bản sửa đổi thứ 5 của cuốn sổ tay này trong bài viết “Sổ tay chẩn đoán và thống kê các loại rối loạn tâm thần, tái bản lần 5 (DSM-5)”
Cách can thiệp ở trẻ tự kỷ
Về mặt lâu dài, việc can thiệp sớm có thể tạo ra sự khác biệt lớn. Trẻ có thể tăng mong muốn được tương tác với người khác và các kỹ năng sống hàng ngày của bé cũng được cải thiện rõ rệt, chẳng hạn như việc đi vệ sinh và mặc quần áo.
Sự cải thiện của những trẻ được trị liệu trước 3 tuổi thường là lớn nhất, tuy nhiên những sự giúp đỡ dành cho trẻ tự kỷ không bao giờ là quá muộn.
Nhu cầu của trẻ tự kỷ rất khác nhau, tùy thuộc vào triệu chứng của từng bé. Có rất nhiều phương pháp trị liệu có thể giúp ích trong việc điều trị. Các chương trình điều trị tốt nhất là những chương trình được hiệu chỉnh phù hợp cho từng bé.
Mẹ có thể lựa chọn một trong số các phương pháp dưới đây:
Trị liệu hành vi: Loại trị liệu này thường dựa trên cách tiếp cận được gọi là phân tích hành vi ứng dụng, hoặc còn gọi là ABA. Phương pháp này sử dụng hiệu ứng tăng cường tích cực để khuyến khích các hành vi phù hợp.
Khi một em bé thành thạo một kỹ năng đặc biệt, chẳng hạn như giao tiếp bằng mắt hoặc tham gia vào một cuộc trò chuyện, bé sẽ nhận được phần thưởng hoặc lời khen ngợi.
Bé sẽ bỏ qua các hành vi mà mình không muốn làm, hoặc tự cho mình quyền có thể làm một điều gì đó. Trẻ sẽ bắt đầu từ những kỹ năng nhỏ và dần dần làm quen với những kỹ năng phức tạp hơn.
Liệu pháp tích hợp cảm giác: Trẻ tự kỷ thường gặp khó khăn trong việc tích hợp thông tin từ các giác quan.
Các bé sẽ co người lại khi mọi người cố gắng chạm vào, hay đôi khi quá nhạy cảm với một số mùi và loại vải nhất định, không thích bị dính bẩn hoặc muốn hoạt động liên tục. Cách điều trị này bao gồm thử thách việc chịu đựng sự kích thích của trẻ.
Can thiệp phát triển dựa trên mối quan hệ: Liệu pháp này sử dụng việc tương tác dựa trên trò chơi cụ thể để thúc đẩy sự quan tâm của trẻ em đối với người khác và giúp các bé cảm thấy thích thú trong việc hòa nhập với xã hội, qua đó cũng giúp con tự làm chủ các mốc phát triển của mình.
Ví dụ về một số kỹ thuật như can thiệp phát triển các mối quan hệ, mô hình can thiệp sớm Denver và liệu pháp chơi trên sàn.
Mô hình can thiệp sớm của Denver là một ví dụ
Trong số các phương pháp này, có rất nhiều kỹ thuật hướng đến trẻ em, điều này có nghĩa là các hoạt động này tuân theo sở thích tự nhiên của của trẻ đồng thời kích thích bé làm chủ các mốc xã hội, tình cảm và trí tuệ của mình.
Ví dụ, nếu một đứa trẻ đang gõ vào một chiếc xe đồ chơi, mẹ hãy khuyến khích bé phát triển hoạt động đó. Mẹ có thể bắt chước tiếng gõ hoặc đặt xe của mình trước mặt con để tăng cường việc giao tiếp qua lại giữa mẹ và bé.
Trị liệu ngôn ngữ, trị liệu hành vi và vật lý trị liệu: Trị liệu ngôn ngữ có thể giúp cải thiện ngôn ngữ và kỹ năng xã hội của trẻ.
Một nhà trị liệu hành vi có thể giúp trẻ có các kỹ năng tự giúp đỡ bản thân như biết cách kéo khóa quần hoặc phát triển các kỹ năng chơi, học cách đu qua một dãy các thanh xà ngang ở công viên.
Và một nhà vật lý trị liệu có thể giúp trẻ phát triển các kỹ năng vận động, cải thiện các tư thế và giữ thăng bằng.
Việc sử dụng các liệu pháp để can thiệp cho trẻ tự kỷ cần hết sức thận trọng. Bài viết “Một số liệu pháp bổ sung điều trị bệnh tự kỷ” sẽ giúp mẹ có những kiến thức cơ bản nhất về can thiệp trẻ tự kỷ.
Tự kỷ có thể điều trị bằng thuốc không?
Hiện không có thuốc để điều trị chứng tự kỷ. Nhưng các bác sĩ có thể kê thuốc để điều trị một vài hành vi hoặc những tình trạng cụ thể như co giật, lo lắng, trầm cảm, mất ngủ, khó chịu, bốc đồng và hiếu động liên quan đến tự kỷ.
Một số cha mẹ phản hồi rằng việc sử dụng các liệu pháp thay thế như bổ sung vitamin B6, magie, men vi sinh hoặc axit béo omega-3 vào chế độ ăn cho trẻ cũng đem lại những kết quả tốt.
Tuy nhiên, không có nghiên cứu nào được thực hiện để chứng minh rằng các phương pháp điều trị này thực sự có hiệu quả, và đôi khi một số phương pháp còn có thể gây hại. Hãy nói chuyện với bác sĩ trước khi cho con dùng bất kỳ loại thực phẩm bổ sung hoặc liệu pháp thay thế nào.
Không có phương pháp đặc trị cho Hội chứng tự kỷ, vậy ba mẹ nên làm gì để giúp con thoát khỏi rối loạn này? Để biết câu trả lời mời ba me tham khảo bài viết: Cha mẹ cần làm gì khi trẻ có dấu hiệu tự kỷ?
Những vấn đề khác có liên quan đến tự kỷ?
Trẻ mắc chứng tự kỷ thường đi kèm theo những vấn đề khác. Một báo cáo của CDC chỉ ra rằng gần 1/3 trẻ em bị ASD cũng bị thiểu năng trí tuệ và 10% có những vấn đề di truyền khác, chẳng hạn như hội chứng Down hoặc hội chứng Fragile X
Nhiều trẻ tự kỷ còn có các vấn đề khác về sức khỏe, bao gồm trầm cảm, lo lắng và rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Trẻ tự kỷ cũng dễ bị các vấn đề về cảm giác và mất ngủ. Khoảng 1/3 trẻ bị co giật.
Rối loạn tăng động giảm chú ý cũng có thể là dấu hiệu của trầm cảm
Ngoài ra trẻ tự kỷ cũng gặp khó khăn trong những hoạt động rất bình thường hằng ngày như chơi, ăn ngủ, di chuyển bằng xe…
Một ví dụ điển hình là chuyện trẻ tự kỷ đi xe ô tô. Không gian trong xe và tiếng ồn sẽ khiến trẻ khó chịu. Để hạn chế tình trạng này, ba mẹ hãy bỏ túi 7 mẹo giúp trẻ tự kỷ thoải mái hơn khi đi ô tô
Việc hòa đồng với bạn bè của trẻ tự kỷ
Trẻ tự kỷ thường biểu hiện hành vi bất thường và những trẻ khác có thể thấy khó khăn khi tiếp xúc với con.
Một trong những phần chuẩn bị cho một em bé mắc chứng tự kỷ để tương tác với xã hội bao gồm việc dạy cho bé các kỹ năng cụ thể, chẳng hạn như làm thế nào để giao tiếp bằng mắt, tham gia vào một nhóm và xây dựng một cuộc hội thoại.
Giúp trẻ tự kỷ hòa đồng
Mặc dù trẻ tự kỷ thường thể hiện những cảm xúc khác nhau, nhưng không phải là các cảm xúc đó không có mối liên hệ với nhau.
Một em bé mắc chứng tự kỷ có thể không thích được ôm ấp, nhưng bé có khả năng phát triển sự gắn bó sâu sắc với cha mẹ, anh chị em, những em bé khác và cả cô giáo của con nữa.
Mẹ hãy bắt đầu dạy con cách hòa đồng từ những hoạt động trong gia đình như dịp lễ Tết, du lịch...Mời ba mẹ tham khảo bài viết “Giúp trẻ tự kỷ hòa đồng khi đi du lịch”.
Tương lai của một đứa trẻ tự kỷ sẽ ra sao?
Với các phương pháp trị liệu và hỗ trợ đúng đắn, trẻ em mắc chứng tự kỷ giờ đây có nhiều khả năng hồi phục, không còn bị phụ thuộc và tự tin phát triển các mối quan hệ lành mạnh với những người khác khi các bé đến tuổi trưởng thành.
Việc điều trị có thành công hay không phụ thuộc phần lớn vào mức độ nghiêm trọng của bệnh và những sự hỗ trợ mà bé nhận được.
Một số người trưởng thành mắc chứng tự kỷ hoạt động độc lập, làm việc và sống một mình và chỉ nhận sự giúp đỡ khi cần thiết chẳng hạn như khi làm việc với các giấy tờ hoặc liên quan đến vấn đề tài chính.
Nhưng chuyên gia Ozonoff, phó chủ tịch nghiên cứu tại khoa Tâm thần học và Khoa học hành vi tại Viện UC Davis MIND, nói rằng hầu hết trẻ tự kỷ vẫn yêu cầu tiếp tục được hỗ trợ và hỗ trợ khi ở tuổi trưởng thành.
Một số trẻ vẫn ở chung nhà với cha mẹ. Một số trẻ ở lại các trung tâm, các nhóm được giám sát bởi nhân viên được đào tạo giúp chuẩn bị bữa ăn và các hoạt động chăm sóc cá nhân của trẻ.
Để hiểu rõ hơn về trẻ mắc tự kỷ mời ba mẹ tham khảo bài viết: Sự phát triển nhận thức của trẻ tự kỷ
Tiêm vắc-xin có làm tăng nguy cơ bị tự kỷ ở trẻ hay không?
Từ một nghiên cứu vào năm 1998 cho rằng một vài triệu chứng của tự kỷ là phản ứng vật lý với vắc xin đã có rất nhiều ý kiến gây tranh cãi về kết luận này. Sau đó nghiên cứu này đã nhanh chóng bị bác bỏ. Tuy nhiên nó đã gây hoang mang cho nhiều người.
Tiêm vắc xin không liên quan đến việc trẻ có nguy cơ tự kỷ cao
Chất bảo quản trong vắc-xin cũng được cho là có liên quan đến việc khiến trẻ có nguy cơ bị tự kỷ cao. Tuy nhiên những lý luận trên chưa được chứng thực. Trong khi đó những lợi ích của vắc-xin trong việc bảo vệ trẻ và ngăn ngừa dịch bệnh không ai có thể phủ nhận.
Để tìm hiểu chi tiết hơn về sự thật đằng sau tin đồn xấu của vắc-xin, mời ba mẹ đọc bài viết: Tiêm vắc-xin có làm tăng nguy cơ bị tự kỷ ở trẻ hay không?
Mẹ có thể tìm hiểu thêm thông tin về tự kỷ ở đâu?
Hiện có rất nhiều tổ chức cung cấp thông tin, nguồn dữ liệu, giới thiệu và hỗ trợ cho cha mẹ của trẻ tự kỷ. Hãy nhớ rằng nhiều cha mẹ khác cũng đang đối phó với những thách thức khi nuôi dạy trẻ tự kỷ.
Nhiều cha mẹ cũng mong muốn được hỗ trợ về mặt cảm xúc và những giúp đỡ thiết thực khi đồng hành với con yêu. Vì vậy đừng ngại chia sẻ đẻ được giúp đỡ mẹ nhé!
Chúng tôi hiểu rằng, mọi người mẹ đều có quỹ thời gian ít ỏi. Bạn luôn bận rộn chăm sóc em bé và không có thời gian cho chính mình.
POH tồn tại để giúp các mẹ bận rộn nuôi dạy con khoa học thật dễ dàng và bạn có thời gian chăm sóc bản thân.
Các khóa học của POH:
Giúp con ngủ xuyên đêm 11-12 tiếng, mẹ nghỉ ngơi 7-8 tiếng mỗi đêm (0-1 tuổi): POH Easy
Phát triển não bộ, vận động & ngôn ngữ từ sớm cho con yêu (0-3 tuổi): POH Acti
Giúp con phát triển EQ, IQ tối ưu bằng Kỷ luật tích cực (0-6 tuổi): POH Poti
Thai giáo giúp trẻ thông minh, khỏe mạnh từ trong bụng mẹ: POH Thai giáo