MỤC LỤC
Điều gì có thể xảy ra nếu bạn sinh non?
Nguyên nhân gây ra sinh non tự phát?
Các yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh non tự phát là gì?
Có xét nghiệm nào có thể tầm soát nguy cơ sinh non không?
Đo chiều dài cổ tử cung của bằng siêu âm
Đau đẻ sớm và sinh non là gì?
Nếu thai nhi chưa được 37 tuần nhưng mẹ bắt đầu có những cơn co thắt thường xuyên, khiến cổ tử cung mở ra, mẹ đang trong giai đoạn sinh non.
Sinh non là gì? Nếu sinh khi thai nhi chưa được 37 tuần thì đó gọi là sinh non
Nếu sinh con trước 37 tuần, đó được gọi là sinh non và em bé được coi là trẻ sinh non.
Đau đẻ sớm không có nghĩa là mẹ sẽ sinh con sớm. Có tới một nửa các bà mẹ trải qua cơn đau đẻ sớm nhưng cuối cùng sinh con khi thai nhi được 37 tuần hoặc thậm chí là muộn hơn.
Mời mẹ đọc thêm bài viết Thai nhi tuần thứ 37
Khoảng một phần tư ca sinh non được lên kế hoạch. Nếu mẹ hoặc thai nhi bị biến chứng hoặc có vấn đề nào đó (sức khỏe không tốt, tiền sản giật hoặc thai nhi ngừng phát triển), bác sĩ có thể sẽ quyết định gây chuyển dạ sớm hoặc thực hiện mổ lấy thai trước 37 tuần.)
Số còn lại thuộc nhóm sinh non tự phát. Sinh non tự phát là khi bạn chuyển dạ sớm, nước ối vỡ sớm (vỡ ối non hoặc PPROM) hoặc khi cổ tử cung mở sớm mà không co thắt (được gọi là suy cổ tử cung hoặc bất túc cổ tử cung).
Khoảng 12% trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ được sinh non, cao hơn khoảng một phần ba so với đầu những năm 1980. Ngày càng có nhiều phụ nữ sử dụng phương pháp điều trị sinh sản, điều này khiến họ có nhiều khả năng sinh đôi.
Ngoài ra, nhiều phụ nữ đang trì hoãn việc mang thai và cơ hội mang đa thai sẽ tăng lên khi già đi.
Các biểu hiện của đau đẻ sớm
Đau đẻ như nào thì vào viện? Mẹ nên gọi cho nữ hộ sinh hoặc bác sĩ ngay khi mẹ gặp bất kỳ triệu chứng nào sau đây trước tuần 37:
- Dịch âm đạo tiết ra nhiều hơn bình thường
- Nếu tiết ra chất lỏng hoặc chất dịch trở nên loãng, giống như dịch nhầy hoặc có máu (ngay cả khi nó có màu hồng)
- Chảy máu âm đạo
- Đau bụng, chuột rút hoặc co thắt hơn bốn lần trong vòng một giờ (ngay cả khi chúng không đau)
- Áp lực nhiều hơn ở vùng xương chậu (cảm giác em bé bị đẩy xuống)
- Đau thắt lưng dưới
Những triệu chứng này có thể gây nhầm lẫn bởi vì một số trong số chúng, chẳng hạn như áp lực vùng chậu hoặc đau thắt lưng, là những dấu hiệu phổ biến khi mang thai, và các cơn co thắt sớm lẻ tẻ có thể chỉ là các cơn gò sinh lý Braxton Hicks.
Nhưng an toàn là trên hết, vậy nên hãy liên hệ bác sĩ ngay lập tức nếu gặp bất cứ điều gì bất thường trong lúc mang thai. Để sớm nắm bắt được các vấn đề tiềm ẩn, mẹ nên chú ý đến những biểu hiện trong lúc mang thai.
Mời mẹ xem thêm: Xét nghiệm chuyển dạ sinh non: Fibronectin
Điều gì có thể xảy ra nếu bạn sinh non?
Sinh non có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe hoặc thậm chí gây tử vong, đặc biệt nếu sinh quá sớm. Nhìn chung, sinh ra càng gần với ngày dự sinh thì cơ hội sống và phát triển khỏe mạnh càng lớn.
Sinh non gây ra nhiều nguy cơ cho thai nhi
Một số em bé sinh non gặp vấn đề về việc hít thở. Sinh non cũng có thể tăng nguy cơ xuất huyết não ở trẻ.
Hệ thần kinh, đường tiêu hóa và các cơ quan khác cũng có thể bị ảnh hưởng. Trẻ sinh non dễ bị nhiễm trùng và vàng da và có thể gặp khó khăn khi cho ăn cũng như khó duy trì nhiệt độ cơ thể.
Những trẻ sống sót đôi khi phải chịu hậu quả lâu dài về sức khỏe, bao gồm bệnh phổi mãn tính, suy giảm thị lực và thính giác, bại não và các vấn đề về phát triển.
Những trẻ này, nếu không gặp vấn đề gì khác về sức khỏe thì nhìn chung vẫn phát triển tốt hơn những trẻ được sinh ra khi chưa đến 34 tuần tuổi. Tuy nhiên, so với những trẻ được sinh ra muộn hơn, cơ thể chúng vẫn có phần yếu hơn.
Nếu chuyển dạ trước khi thai được 34 tuần và không có lý do y tế nào để sinh con ngay lập tức, bác sĩ có thể sẽ trì hoãn chuyển dạ trong vài ngày.
Điều này có nghĩa là em bé có thể được cung cấp corticosteroid để giúp phổi và các cơ quan khác phát triển nhanh hơn, giúp tăng cơ hội sống sót và giảm thiểu một số rủi ro khi sinh non.
Nhiều tiến bộ công nghệ đã được áp dụng để giúp điều trị cho trẻ sinh non. Để tận dụng những điều này, trẻ sinh non được chăm sóc tốt nhất tại bệnh viện có phòng chăm sóc đặc biệt dành cho trẻ sơ sinh (NICU).
Nguyên nhân gây ra sinh non tự phát?
Có nhiều yếu tố có thể dẫn đến sinh non:
Nhiễm trùng
Một số bệnh nhiễm trùng đường sinh dục có liên quan đến sinh non. Các chất sinh ra từ vi khuẩn trong đường sinh dục có thể làm suy yếu các màng xung quanh túi ối và khiến túi ối bị vỡ sớm.
Ngay cả khi màng vẫn còn nguyên, vi khuẩn vẫn có thể gây nhiễm trùng và viêm tử cung, điều này có thể gây ra một chuỗi các sự kiện dẫn đến chuyển dạ sinh non.
Mẹ có thể đã được kiểm tra bệnh chlamydia và bệnh lậu trong lần khám thai đầu tiên. Nếu đã xét nghiệm dương tính với một trong hai bệnh này, mẹ bầu và chồng nên được điều trị ngay lập tức, kiểm tra lại sau khi điều trị và đừng quên sử dụng bao cao su khi quan hệ trong thời kỳ mang thai.
Nếu đã sinh non trước đó, mẹ cũng có thể đã được kiểm tra nhiễm khuẩn âm đạo (BV).
Mặc dù một số nghiên cứu cho thấy điều trị viêm âm đạo do vi khuẩn (BV) trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba giúp giảm nguy cơ sinh non ở phụ nữ có tiền sử sinh non, nhưng nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng việc điều trị này không đem lại hiệu quả.
Nhiễm trùng có thể khiến mẹ sinh non tự phát
Vì vậy, các chuyên gia vẫn chưa thống nhất về việc có nên kiểm tra những phụ nữ mang thai không có triệu chứng hay không. (Nếu có triệu chứng viêm âm đạo do vi khuẩn, mẹ sẽ được kiểm tra và điều trị bằng kháng sinh, nếu cần thiết.)
Mẹ có thể sẽ không được kiểm tra bệnh trichomonas trừ khi bạn có các triệu chứng khó chịu.
Một số bệnh nhiễm trùng không liên quan đến tử cung, chẳng hạn như nhiễm trùng thận, viêm phổi và viêm ruột thừa, cũng làm tăng nguy cơ sinh non.
Mẹ cũng có nhiều nguy cơ hơn nếu bị một loại nhiễm trùng đường tiết niệu được gọi là nhiễm khuẩn niệu không triệu chứng, một tình trạng có vi khuẩn trong đường tiết niệu nhưng không có triệu chứng. (Đây là lý do tại sao tất cả phụ nữ mang thai nên xét nghiệm nước tiểu để kiểm tra.)
- Có vấn đề với nhau thai, chẳng hạn như nhau tiền đạo (vị trí không bình thường của nhau thai), nhau cài răng lược hoặc bong nhau thai
- Tử cung quá lớn, thường xảy ra khi mang đa thai hoặc có quá nhiều nước ối
- Có cấu trúc của tử cung hoặc cổ tử cung bất thường. Ví dụ, mẹ có thể có cổ tử cung ngắn hơn bình thường (dưới 25 mm). Đây được gọi là suy cổ tử cung và nó có thể là kết quả của việc đã phẫu thuật cổ tử cung, hoặc cũng có thể do bẩm sinh.
- Phẫu thuật bụng trong khi mang thai (ví dụ như cắt ruột thừa, túi mật, hoặc u nang buồng trứng lớn)
Các yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh non tự phát là gì?
Có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh non tự phát, nhưng hãy nhớ rằng có những trường hợp sinh non mà không có bất kì dấu hiệu nào. Mặc dù không thể kết luận được liệu mẹ có sinh non hay không, nhưng sẽ có khả năng này nếu:
- Trước đây đã sinh non
- Mang thai đôi hoặc đa thai
- Chưa đến 17 hoặc nhiều hơn 35 tuổi
- Là người Mỹ gốc Phi
- Bị thiếu cân trước khi có thai hoặc không tăng đủ cân trong suốt thai kỳ
- Bị chảy máu âm đạo trong tam cá nguyệt thứ nhất hoặc thứ hai. Nguy cơ thậm chí còn cao hơn nếu bị chảy máu âm đạo trong hơn một ký tam cá nguyệt
- Bị thiếu máu trong thời kỳ đầu mang thai
- Hút thuốc, lạm dụng rượu hoặc sử dụng ma túy (đặc biệt là cocaine) khi mang thai
- Có thai trong vòng sáu tháng sau khi sinh
- Được sinh ra từ một người mẹ đã dùng thuốc DES.
- Không được chăm sóc trước khi sinh hoặc chăm sóc quá muộn trong thai kỳ
- Mang thai một em bé là kết quả của phương pháp hỗ trợ sinh sản
- Có tình trạng kinh tế xã hội thấp
Căng thẳng cũng là một nguyên nhân có thể dẫn đến sinh non vì căng thẳng có thể dẫn đến việc giải phóng các hormone có thể kích thích co bóp tử cung và sinh non.
Điều này giải thích tại sao những phụ nữ phải chịu đựng bạo hành gia đình sẽ có nguy cơ bị sinh non tự phát cao hơn. Những người chịu đựng bạo lực về thể xác có nguy cơ cao hơn, đặc biệt là nếu có chấn thương ở bụng.
Có một số nghiên cứu cho thấy những phụ nữ làm việc ca đêm hoặc có những công việc đòi hỏi thể chất cực kỳ cao có thể có nguy cơ sinh non cao hơn.
Cuối cùng, một số nhà nghiên cứu đang nghiên cứu vai trò của các yếu tố di truyền, vì sinh non có vẻ như phổ biến hơn ở trong một số gia đình. Di truyền học có thể giúp giải thích những tỷ lệ khác nhau đối với từng chủng tộc khác nhau.
Có xét nghiệm nào có thể tầm soát nguy cơ sinh non không?
Hai xét nghiệm sàng lọc có sẵn cho những phụ nữ có triệu chứng chuyển dạ sớm hoặc có nguy cơ cao mắc phải. Kết quả âm tính có thể sẽ giúp cho mẹ bầu cảm thấy yên tâm và tránh những can thiệp và thời gian không cần thiết ở trong bệnh viện.
Hội nghị Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) không khuyến nghị sử dụng xét nghiệm thường xuyên cho tất cả phụ nữ mang thai. Các nghiên cứu chưa cho thấy các xét nghiệm hữu ích cho những phụ nữ không có nguy cơ cao và không có triệu chứng.
Đây là hai bài kiểm tra:
Đo chiều dài cổ tử cung của bằng siêu âm
Bác sĩ có thể đã kiểm tra độ dài của cổ tử cung trong lần khám thai đầu tiên của mẹ.
Nếu có bất kỳ lo ngại nào, siêu âm có thể được khuyến nghị để đo cổ tử cung chính xác hơn và tìm kiếm các dấu hiệu cho thấy nó đang thay đổi. Nếu nó bắt đầu mỏng đi hoặc mở thì có nhiều khả năng mẹ sẽ sinh non.
Ví dụ, bác sĩ có thể sẽ yêu cầu siêu âm nếu tử cung ngắn bất thường trong lúc kiểm tra; nếu có nguy cơ cao bị bất túc cổ tử cung, hoặc nếu sau đó mẹ có các triệu chứng cho thấy tử cung đang thay đổi (như chèn ép khung xương chậu hoặc chuột rút, đau lưng, tiết nhiều dịch nhầy hơn, hoặc chảy máu âm đạo)
Nếu siêu âm cho thấy cổ tử cung bắt đầu thay đổi, có thể bác sĩ sẽ khuyên mẹ nên cắt giảm hoạt động thể chất và làm việc, tránh quan hệ tình dục và ngừng hút thuốc. Tùy thuộc vào tình huống và tuổi thai của bé, mẹ có thể siêu âm lại trong vòng vài tuần tiếp theo.
Nếu bạn mang thai dưới 24 tuần và cổ tử cung đang thay đổi nhưng mẹ không có bất kỳ cơn co thắt nào, thì có thể sử dụng phương pháp buộc vòng.
Đối với phương pháp này, một dải chỉ mạnh được khâu xung quanh cổ tử cung để giữ nó đóng lại. Tuy nhiên, biện pháp này không phải không có rủi ro và có nhiều tranh cãi về việc liệu nó có đủ hiệu quả hay không.
Phương pháp này có thể có ích đối với những người đã có tiền sử bệnh bất túc cổ tử cung. Nếu phù hợp với nhóm này, một ca phẫu thuật có thể sẽ được thực hiện vào cuối tam cá nguyệt đầu tiên (12 đến 14 tuần), trước khi có thay đổi cổ tử cung.
Nếu đã sinh non trước 34 tuần, cổ tử cung của mẹ có thể được đo thường xuyên và đặt vòng tránh thai nếu rút ngắn được ghi nhận trước 23 tuần.
Cũng có bằng chứng cho thấy sử dụng progesterone âm đạo có thể làm giảm nguy cơ sinh non ở phụ nữ có cổ tử cung ngắn (dưới 2 cm).
Xét nghiệm fibronectin bào thai
Xét nghiệm này thường áp dụng đối với phụ nữ bị co thắt hoặc có các triệu chứng khác của sinh non. Fibronectin bào thai (fFN) là một loại protein được tạo ra từ màng thai nhi.
Nếu có quá nhiều chất này xuất hiện trong mẫu dịch tiết ra từ cổ tử cung và âm đạo trong khoảng thời gian mang thai từ 24 đến 34 tuần, thì có nguy cơ cao là mẹ sẽ sinh non.
Khi có kết quả dương tính với fFN, có thể bác sĩ sẽ cung cấp thuốc cho mẹ nhằm trì hoãn việc chuyển dạ và đồng thời cung cấp corticosteroid để giúp bé trưởng thành hơn.
Tuy nhiên, kết quả xét nghiệm thực chất sẽ chính xác hơn trong việc cho biết mẹ sẽ không chuyển dạ chứ không dự đoán chính xác khi nào mẹ sinh em bé.
Nếu kết quả âm tính, khả năng cao là mẹ sẽ không sinh trong vòng hai tuần nữa. Một kết quả âm tính có thể giúp mẹ nhẹ nhàng hơn và tránh được những điều trị không cần thiết.
Có thể làm gì khác nếu có nguy cơ sinh non cao?
Chăm sóc bản thân. Nếu ăn uống tốt, nghỉ ngơi nhiều, chăm sóc sức khỏe tiền sinh sản tốt, gặp bác sĩ thường xuyên, ngừng các thói quen không lành mạnh (như hút thuốc) và kiểm soát mức độ căng thẳng thì mẹ đã có thể đảm bảo được sức khỏe và mang thai đủ tháng.
Tùy thuộc vào tình hình của mẹ, bác sĩ có thể khuyên mẹ nên gặp chuyên gia về sức khỏe bà mẹ - trẻ em để được chăm sóc tốt hơn.
Tiêm thuốc trưởng thành phổi để thai nhi phát triển hơn
Nếu đã từng bị vỡ ối non (PPROM) hoặc sinh non tự phát trước 37 tuần và hiện chỉ mang thai đơn, hãy nói chuyện với bác sĩ để tìm hiểu về việc sử dụng hợp chất có tên là Makena.
Trong tình huống này, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tiêm hormone này hàng tuần, bắt đầu từ khi thai được 16 đến 20 tuần và tiếp tục trong suốt tuần 36, làm giảm đáng kể nguy cơ lặp lại sinh non cho phụ nữ.
(Trong một số trường hợp, thuốc được bắt đầu sau tuần 20.) Tuy nhiên, thuốc này không có tác dụng đối với những người mang đa thai hoặc với những người chưa từng bị sinh non trước đó.
Khi thai kỳ phát triển, hãy dành thời gian để thích ứng với thay đổi đang diễn ra trong cơ thể mình. Dành thời gian ngồi một mình mỗi ngày để có thể tập trung vào những chuyển động của em bé và lưu ý tất cả những cơn đau bất thường.
Tìm hiểu các dấu hiệu chuyển dạ sinh non, và cho bác sĩ biết ngay nếu nhận thấy bất kỳ dấu hiệu nào.
Phát triển quan trọng nhất trong đối phó với chuyển dạ sinh non trong 50 năm qua là việc sử dụng corticosteroid để tăng tốc độ phát triển phổi của em bé trước khi sinh. Mẹ càng sớm nhận ra mình chuyển dạ sớm, thì phương pháp điều trị này càng phát huy tác dụng.
Cuối cùng, một số bác sĩ sẽ gợi ý mẹ nên dành thời gian nằm nghỉ dưỡng, nhưng hầu hết các nghiên cứu chỉ ra rằng không có bằng chứng nào cho thấy phương pháp này có tác dụng, thậm chí trong một số trường hợp nó còn có hại hơn là có lợi.
Điều gì xảy ra nếu bắt đầu chuyển dạ sớm?
Nếu có dấu hiệu chuyển dạ sớm hoặc nghĩ rằng mình bị rách màng ối, hãy liên hệ với bác sĩ để kiểm tra các cơn co thắt, nhịp tim của em bé và xem màng ối có bị vỡ hay không.
Mẹ sẽ được kiểm tra nước tiểu, hoặc có thể được nuôi cấy tử cung, hay cũng có thể được làm xét nghiệm Fibronectin thai nhi (fFN).
Nếu không bị vỡ ối, bác sĩ sẽ kiểm tra âm đạo để kiểm tra tình hình cổ tử cung và siêu âm thường để kiểm tra lượng nước hối hiện tại và xác nhận sự tăng trưởng, tuổi thai và vị trí của em bé. Cuối cùng, một số bác sĩ sẽ siêu âm âm đạo để kiểm tra lại chiều dài của tử cung.
Nếu tất cả các xét nghiệm đều âm tính, màng ối không bị vỡ, cổ tử cung không bị giãn sau vài giờ theo dõi, các cơn co thắt đã giảm xuống, mẹ và thai nhi có vẻ khỏe mạnh, rất có thể mẹ sẽ được đưa về nhà.
Mặc dù từng bác sĩ có thể sẽ xoay sở theo một cách hơi khác nhau, nhưng sẽ có những chỉ dẫn chung.
Nếu đang mang thai ít hơn 34 tuần và cảm thấy đang chuyển dạ sớm, nhịp tim ổn định, và không có dấu hiệu bị nhiễm trùng tử cung hoặc các vấn đề khác như tiền sản giật nặng hoặc dấu hiệu nhau thai bất thường, bác sĩ có thể sẽ cố gắng trì hoãn việc sinh.
Trước tiên, mẹ sẽ dùng kháng sinh IV để ngăn ngừa nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) ở trẻ. Mẹ sẽ được dùng thuốc để ngăn chặn các cơn co thắt lâu nhất có thể kéo dài thời gian để cung cấp corticosteroid cho thai nhi, nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển của phổi.
Trong trường hợp mẹ đang ở bệnh viện nhỏ, không có dịch vụ chăm sóc chuyên biệt cho trẻ sinh non, nếu có thể, thời điểm này mẹ sẽ được chuyển đến một cơ sở lớn hơn để được theo dõi trong suốt quá trình chuyển dạ.
Chờ sinh là cách hữu ích giúp thai nhi có thêm thời gian phát triển
Nếu nước ối vỡ trước khi thai được 34 tuần nhưng bạn không bị co thắt, bác sĩ có thể sẽ quyết định gây chuyển dạ hoặc chọn chờ đợi với hy vọng sẽ có nhiều thời gian hơn cho phổi em bé phát triển.
Điều này phụ thuộc vào việc mẹ phải đi bao xa và có dấu hiệu nào của nhiễm trùng hoặc các lí do khác khiến cho em bé được sinh ra một cách tốt hơn.
Trong mọi trường hợp, trừ khi mẹ có xét nghiệm GBS gần đây với kết quả âm tính, mẹ sẽ phải dùng kháng sinh để chống lại vi khuẩn GBS.
Nếu đang mang thai được 34 tuần hoặc nhiều hơn mà mẹ bị vỡ nước ối, mẹ có thể sẽ phải sinh mổ. Mặt khác, nếu thai chưa được 34 tuần, mẹ nên chờ đến lúc sinh trừ khi có một lí do nào đó rõ ràng.
Mục đích của việc chờ đợi là cố gắng cho bé thêm thời gian để trưởng thành. Nhược điểm là nguy cơ nhiễm trùng cao hơn. Nhưng lúc này, chờ đợi là phương án tối ưu nhất.
Trong khi chờ đợi, mẹ sẽ nhận được thuốc kháng sinh (ngoài những loại bạn dùng chống lại vi khuẩn GBS) để giảm nguy cơ nhiễm trùng khác và giúp kéo dài thai kỳ. Mẹ cũng sẽ nhận được một liệu trình corticosteroid để giúp thúc đẩy sự phát triển phổi của bé.
mẹ bầu và thai nhi sẽ được theo dõi cẩn thận trong thời gian này. Tất nhiên, nếu xuất hiện các triệu chứng nhiễm trùng hoặc có những dấu hiệu khác cho thấy em bé không phát triển mạnh, mẹ sẽ phải sinh mổ.
Trường hợp chưa được 24 tuần, không nên sử dụng kháng sinh để phòng ngừa vi khuẩn GBS cũng như corticosteroid. Bác sĩ sẽ đưa ra những dự đoán về thai nhi và mẹ có thể chọn chờ hoặc sinh.
Nguồn: Babycentre
-----
POH Thai giáo có gì khác với các khóa học thai giáo hiện nay?
POH – Thai giáo là chương trình thực hành thai giáo được CÁ NHÂN HÓA cho từng mẹ bầu và bé.
Mỗi mẹ bầu và bé là một chương trình RIÊNG BIỆT.
Điểm khác biệt của POH – Thai giáo là App hiểu “NGÀY HÔM NAY” con bạn như thế nào và cần gì. Từ đó đưa ra các kiến thức, bài thực hành phù hợp với sự phát triển của con trong “NGÀY HÔM NAY”, giúp kích thích tốt nhất sự phát triển của bạn bé.
Các bài thực hành được chuẩn bị chi tiết, mẹ chỉ cần mở ra, tương tác và chơi với con hàng ngày. Rất tiện lợi và đơn giản.
POH là đơn vị ĐẦU TIÊN và DUY NHẤT ở Việt Nam cung cấp chương trình thực hành thai giáo được cá nhân hóa dành riêng cho bạn và bé.
Giúp con khỏe mạnh, thông minh từ trong bụng mẹ cùng POH Thai giáo
-----